Trong pháp luật dân sự, vấn đề thừa kế luôn là vấn đề phức tạp do xung đột quyền lợi của các bên và xuất phát từ đặc trưng là các bên tham gia quan hệ này đều có quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng.Chế định thừa kế là một chế định quan trọng trong hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự Việt Nam từ Pháp lệnh thừa kế năm 1990 đến Bộ luật dân sự 2005 và mới đây nhất là Bộ luật dân sự 2015. Trong những năm gần đây số lượng các vụ tranh chấp về thừa kế luôn chiếm tỷ trọng lớn trong các tranh chấp dân sự và có tính phức tạp. Bởi vậy việc nghiên cứu, nắm rõ và vận dụng tốt các quy định pháp luật về thừa kế là đòi hỏi cấp thiết của các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết loại tranh chấp này.
CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
Trong pháp luật dân sự, vấn đề thừa kế luôn là vấn đề phức tạp do xung đột quyền lợi của các bên và xuất phát từ đặc trưng là các bên tham gia quan hệ này đều có quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng.Chế định thừa kế là một chế định quan trọng trong hệ thống các quy phạm pháp luật dân sự Việt Nam từ Pháp lệnh thừa kế năm 1990 đến Bộ luật dân sự 2005 và mới đây nhất là Bộ luật dân sự 2015. Trong những năm gần đây số lượng các vụ tranh chấp về thừa kế luôn chiếm tỷ trọng lớn trong các tranh chấp dân sự và có tính phức tạp. Bởi vậy việc nghiên cứu, nắm rõ và vận dụng tốt các quy định pháp luật về thừa kế là đòi hỏi cấp thiết của các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết loại tranh chấp này.
I/ Thời điểm, địa điểm mở thừa kế
Theo quy định tại Điều 611 Bộ luật dân sự năm 2015, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp Tòa án tuyên bố một người đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày Tòa án xác định người đó đã chết. Nếu không xác định được chính xác ngày chết của người đó thì ngày Bản án tòa án tuyên bố một người đã chết có hiệu lực pháp luật được coi là ngày người đó chết.
Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản.
Việc xác định thời điểm, địa điểm mở thừa kế là yêu cầu đầu tiên của quan hệ thừa kế và đóng vai trò quan trọng. Vì tại thời điểm và địa điểm này sẽ xác định được người thừa kế của người chết, di sản của người chết để lại, Tòa án có thẩm quyền thụ lý giải quyết, nơi thực hiện nghĩa vụ cũng như thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế.
Đồng thời việc xác định chính xác địa điểm mở thừa kế đóng vai trò quan trọng khi xác định việc từ chối nhận di sản có hợp pháp hay không. Theo quy định tại Điều 620 BLDS “Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản….”.
II/ Người thừa kế
Để xác định người thừa kế của người chết vào thời điểm người này chết, cấn phải xác định người chết có để lại di chúc hay không. Nếu có di chúc thì người thừa kế sẽ được xác định theo di chúc. Nếu không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp, di chúc không phát sinh hiệu lực pháp luật thì người thừa kế sẽ được xác định theo quy định của pháp luật.
Theo đó, người thừa kế theo pháp luật được xác định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứu ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản (Điều 651 BLDS).
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, kể cả thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật thì những người sau đây không có quyền hưởng thừa kế (Điều 643 BLDS):
- Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.
- Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại sản.
- Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế có quyền.
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Tuy nhiên, người có những hành vi này vẫn được hưởng di sản nếu người để lại di sản đã biết hành vi của họ nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc.
Người thừa kế có thể là cá nhân, cơ quan hoặc tổ chức. Nếu người thừa kế là cá nhân thì cá nhân đó phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế là cơ quan, tổ chức thì cơ quan, tổ chức phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
III/ Di sản thừa kế
Theo quy định tại Điều 612 BLDS: Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản riêng của người chết trong tài sản chung với người khác.
Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế và được để lại thừa kế.
Một thực tế hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về di sản dẫn đến tình trạng các vụ án thực tế hiện nay phải xét xử lại do xác định di sản không chính xác và đầy đủ.
Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự tài sản gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Như vậy, quyền tài sản nằm trong khái niệm về tài sản. Cho nên cần phải hiểu khái niệm di sản còn bao gồm cả các quyền về tài sản như: quyền đòi bồi thường thiệt hại, quyền đòi nợ, quyền thừa kế giá trị...
Mặt khác, di sản thừa kế không bao gồm nghĩa vụ của người chết. Do vậy, trong trường hợp người có tài sản để lại còn có cả nghĩa vụ về tài sản, thì thông thường phần nghĩa vụ này sẽ được thanh toán bằng tài sản của người chết. Phần còn lại sẽ được xác định là di sản thừa kế và được chia theo di chúc hay quy định của pháp luật. Theo đó, nghĩa vụ của người chết được thực hiện như sau:
Nếu di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế sẽ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người thừa kế để lại tương ứng với phần tài sản mà mình đã nhận.
Trong trường hợp di sản chưa được chia, thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản được thực hiện theo đúng thỏa thuận của những người thừa kế.
Trong trường hợp Nhà nước, cơ quan, tổ chức hưởng di sản theo di chúc, thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân.
IV/ Di chúc
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Di chúc phải được lập thành văn bản. Trong trường hợp tính mạng của một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng phải ghi chéo lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Sau 03 tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người để lại di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng bị hủy bỏ.
Trong trường hợp di chúc của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha mẹ hoặc người giám hộ đồng ý; Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thức của UBND xã, phường, thị trấn.
Tuy nhiên, một di chúc dù bằng văn bản hay bằng miệng thì chỉ được coi là hợp pháp khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau:
- Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép;
- Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội, hình thức di cúc không trái quy định của pháp luật.
Nếu việc lập di chúc có người làm chứng thì người làm chứng không phải là những người sau:
- Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc
- Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan đến nội dung di chúc.
- Người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
V/ Thời hiệu khởi kiện vụ án thừa kế
Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự: Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ ngày mở thừa kế. Trong thời hạn này, người thừa kế có quyền yêu cầu Tòa án chia thừa kế, xác định quyền thừa kế của mình, truất quyền thừa kế của người khác. Hết thời hạn này, người thừa kế không còn quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế.
Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế sẽ được tính bắt đầu từ thời điểm bắt đầu của ngày tiếp theo ngày xảy ra sự kiện người để lại di sản chết và do đó, thời điểm kết thúc là thời điểm kết thúc ngày tương ứng 30 năm hoặc 10 năm sau.
Như vậy, thừa kế là việc chuyển giao tài sản của một người sau khi người này chết cho những người khác theo quy định của pháp luật. Việc chuyển giao này có thể thực hiện theo di chúc, nếu người có tài sản đã lập di chúc trước khi chết. Trường hợp không có di chúc, di chúc không hợp pháp hoặc di chúc không phát sinh hiệu lực thì việc chuyển giao tài sản sẽ được thực hiện theo pháp luật. Trong trường hợp có tranh chấp về tài sản thừa kế thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.